Scholar Hub/Chủ đề/#thẩm phân phúc mạc/
Thẩm phân phúc mạc là một khái niệm trong toán học, cụ thể là trong lĩnh vực đại số tuyến tính. Nó liên quan đến khái niệm về không gian vector và các phép toán...
Thẩm phân phúc mạc là một khái niệm trong toán học, cụ thể là trong lĩnh vực đại số tuyến tính. Nó liên quan đến khái niệm về không gian vector và các phép toán trên không gian vector.
Thẩm phân phúc mạc xác định cách mà một ánh xạ thay đổi hình dạng hoặc kích thước của không gian vector. Nó sử dụng ma trận để biểu diễn ánh xạ này, và bằng cách nhân ma trận này với một vectơ, ta có thể tính được vectơ kết quả sau khi ánh xạ đã thực hiện.
Việc hiểu và áp dụng thẩm phân phúc mạc rất quan trọng trong nhiều lĩnh vực khoa học và kỹ thuật như định hình hình dạng, xử lý tín hiệu, quang học, cơ học, điều khiển tự động, v.v.
Thẩm phân phúc mạc (còn được gọi là phép biến đổi phúc mạc hoặc phép biến đổi tuyến tính) là một phép toán trong đại số tuyến tính giữa hai không gian vector. Nó mô tả cách một ánh xạ tuyến tính thay đổi hình dạng và kích thước của không gian vector.
Để hiểu thẩm phân phúc mạc, ta xét hai không gian vector A và B có các vectơ cơ sở tương ứng là {a1, a2, ..., an} và {b1, b2, ..., bm}. Thẩm phân phúc mạc được định nghĩa bằng cách biểu diễn mỗi vectơ b trong không gian B dưới dạng tổ hợp tuyến tính của các vectơ cơ sở của không gian A. Khi đó, thẩm phân phúc mạc F giữa không gian A và B được mô tả bằng ma trận F có số hàng là số chiều của không gian B và số cột là số chiều của không gian A.
Khi thực hiện thẩm phân phúc mạc F, ta nhân ma trận F với một vectơ x trong không gian A để tính toán vectơ kết quả y trong không gian B. Quá trình này có thể được thể hiện bằng công thức sau:
y = Fx
Trong đó, y là vectơ kết quả trong không gian B, F là ma trận thẩm phân phúc mạc giữa không gian A và B, và x là vectơ đầu vào trong không gian A.
Thẩm phân phúc mạc có ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ, nó được sử dụng trong định hình hình dạng để biến đổi và biến đổi hình dạng các đối tượng. Nó cũng được sử dụng trong xử lý tín hiệu để biến đổi và trích xuất thông tin từ các tín hiệu. Trong quang học, thẩm phân phúc mạc được sử dụng để mô hình hoá sự biến đổi ánh sáng qua các hệ thống quang học phức tạp. Ngoài ra, thẩm phân phúc mạc còn được áp dụng trong cơ học, điều khiển tự động và nhiều lĩnh vực khác.
KẾT QUẢ GHÉP THẬN Ở BỆNH NHÂN CHẠY THẬN NHÂN TẠO CHU KỲ VÀ THẨM PHÂN PHÚC MẠC TRƯỚC MỔ GHÉP TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115Đặt vấn đề: Đa số các bệnh nhân (BN) được lọc máu: chạy thận nhân tạo (CTNT) hoặc thẩm phân phúc mạc (TPPM) trước ghép. Mục tiêu: khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả sau ghép thận ở bệnh nhân CTNT và TPPM trước mổ tại Bệnh viện Nhân Dân 115. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả có so sánh 300 BN ghép thận từ người sống cho thận tại Bệnh viện Nhân Dân 115. Kết quả: Có 248 BN thực hiện CTNT và 52 BN thực hiện TPPM trước mổ ghép thận, tỉ lệ 4,76. Tuổi trung bình: 44,04 (CTNT) và 40,58 (TPPM). Giới: 70 nữ - 178 nam (CTNT) và 21 nữ - 31 nam (TPPM). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về: BMI, thời gian điều trị thay thế thận trước ghép, quan hệ huyết thống, số lần mổ ghép thận, lượng nước tiểu trươc ghép, dung tích bàng quang, các bệnh kết hợp ở hai nhóm bệnh nhân CTNT và TPPM trước mổ. Nhóm CTNT nhận thận trái từ người hiến nhiều hơn nhóm TPPM với p< 0,05. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ chậm hồi phục chức năng thận (delayed graft function: DGF) , nhiễm trùng niệu, thuyên tắc tĩnh mạch, biến chứng sau ghép và tỉ lệ sống còn tại thời điểm 1 năm sau ghép giữa 2 nhóm. Kết luận: Không có sự khác biệt về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng giữa 2 nhóm BN được lọc máu trước ghép cũng như kết quả sau ghép thận.
#CTNT #TPPM và ghép thận
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THẨM PHÂN PHÚC MẠC CẤP TẠI KHOA HỒI SỨC SƠ SINH BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2Mục tiêu: Mô tả chỉ định, hiệu quả và biến chứng của 5 trường hợp trẻ sơ sinh được thẩm phân phúc mạc cấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu loạt ca. Thông tin được thu thập từ hồ sơ bệnh án của các trường hợp được thực hiện thẩm phân phúc mạc giai đoạn từ 01/01/2016 đến 01/03/2022 tại khoa Hồi sức sơ sinh, bệnh viện Nhi đồng 2. Kết quả: Tất cả đều là trẻ sơ sinh đủ tháng, trong đó có 3 nam, 2 nữ. Một ca tăng kali máu và bốn ca tổn thương thận cấp thất bại với điều trị nội khoa được thẩm phân phúc mạc. Hiệu quả của thẩm phân phúc mạc làm tăng lượng nước tiểu, giảm creatinin máu và giảm kali máu. Biến chứng liên quan đến thẩm phân phúc mạc được ghi nhận là rỉ dịch chân catheter, nhiễm trùng chân catheter, catheter bị nghẹt. Sau khi được xử trí, các biến chứng đều ổn định. Kết luận: Thẩm phân phúc mạc là biện pháp thay thế thận đơn giản, bước đầu cho thấy có hiệu quả và an toàn ở trẻ sơ sinh.
#thẩm phân phúc mạc #tổn thương thận cấp #hồi sức sơ sinh #tăng kali máu.
Tỷ lệ viêm phúc mạc trên trẻ thẩm phân phúc mạc tại Bệnh viện Nhi Trung ươngThẩm phân phúc mạc (TPPM) là phương thức lọc máu ưu tiên cho trẻ cần điều trị thay thế thận, trong đó viêm phúc mạc là một trong những biến chứng phổ biến nhất của TPPM. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tỷ lệ, căn nguyên vi trùng gây viêm phúc mạc ở trẻ TPPM tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ 1/2019 đến 6/2021. Kết quả: Tổng số 52 trẻ (48,1% nam) với tuổi trung bình 8,98 ± 3,92 tuổi tham gia nghiên cứu. 21 trẻ (40,4%) bị viêm phúc mạc, với 9 bệnh nhân trải qua 2 đợt viêm phúc mạc trở lên. Có 39 đợt viêm phúc mạc (0,64 đợt/bệnh nhân - năm), hay gặp trong năm đầu TPPM với 28,2% đợt viêm phúc mạc xảy ra khi TPPM được 3 - 6 tháng. Vi khuẩn gram dương là nguyên nhân gây ra 14 trong số 17 (82,3%) đợt viêm phúc mạc cấy dương tính, trong đó Staphylococcus aureus là loài chủ yếu được phân lập chiếm 64,7%. Tỷ lệ nuôi cấy âm tính ở các đợt còn cao 56,4%. Kết luận: Viêm phúc mạc là biến chứng phổ biến ở trẻ TPPM.
#Viêm phúc mạc #thẩm phân phúc mạc.
Quản lý phẫu thuật bảo tồn các nhiễm trùng ống thông ở trẻ em đang chạy thận nhân tạo bụng Dịch bởi AI Pediatric Surgery International - Tập 25 - Trang 703-707 - 2009
Các chỉ định chính để loại bỏ ống thông thẩm phân phúc mạc bao gồm nhiễm trùng vị trí ra (ESI) mãn tính hoặc nhiễm trùng đường hầm (TI). Hiện chưa có sự đồng thuận về phương pháp điều trị tối ưu cho những nhiễm trùng này ở trẻ em. Trong 10 năm qua, 13 bệnh nhân (7 nữ, độ tuổi trung bình 56 tháng) đang chạy thận nhân tạo phúc mạc đã được điều trị cho chứng ESI tái phát (N: 4) hoặc TI (N: 9). Staphylococcus aureus (12 bệnh nhân) và Pseudomonas aeruginosa (1 bệnh nhân) đã được phân lập. Tất cả bệnh nhân đều được đặt ống thông Tenchkoff thẳng hai bao và thực hiện cạo lớp bao ngoài, với một đường hầm mới sát bên ống thông, và vị trí ra ở khu vực bụng đối diện. Một cuộc theo dõi trung bình là 31 tháng/ống thông cho thấy không có sự tái phát của ESI và TI. Kinh nghiệm về việc cạo lớp bao ở trẻ em vẫn còn hạn chế: tỷ lệ cứu lấy ống thông được báo cáo dao động từ 48-100%. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, kết quả tốt đã được đạt được bằng cách cạo bỏ lớp bao ngoài và tái tạo một đường hầm mới, với lộ trình khác, bám sát ống thông. Biện pháp này dường như đảm bảo một rào cản hiệu quả chống lại nhiễm trùng, trong khi loại bỏ sự cần thiết của lớp bao ngoài. Đôi khi, trong trường hợp ESI hoặc TI tái phát, lớp bao ngoài có thể tạo điều kiện cho sự tồn tại của vi khuẩn. Điều trị phẫu thuật bảo tồn mang lại kết quả tốt ở trẻ em.
#nhiễm trùng ống thông #thẩm phân phúc mạc #nhiễm trùng vị trí ra #xử lý phẫu thuật bảo tồn #trẻ em
Nghiên cứu sự tham gia của yếu tố kích thích tiểu cầu trong phản ứng dị ứng cơ địa không phải histamine trong khoang phúc mạc của chuột nhắt Dịch bởi AI Agents and Actions - Tập 16 - Trang 36-36 - 1985
PAF-acether tổng hợp được tiêm vào ổ bụng (i.p.) của những con chuột đã được nhạy cảm giả, gây ra tình trạng thoát dịch protein huyết tương vào dịch phúc mạc theo liều lượng. Hoạt tính tập trung tiểu cầu được phát hiện trong dịch phúc mạc. Ở những con chuột đã được nhạy cảm thụ động cho một phản ứng dị ứng tức thì không qua trung gian histamine, sự thách thức kháng nguyên đã gây ra tình trạng thoát dịch protein huyết tương vào dịch phúc mạc. Không phát hiện thấy hoạt tính tập trung tiểu cầu trong các dịch này. PAF có khả năng không phải là trung gian gây thoát dịch trong phản ứng dị ứng tức thì không qua trung gian histamine ở chuột.
#PAF-acether #chuột nhắt #phản ứng dị ứng tức thì #thoát dịch #hoạt tính tập trung tiểu cầu
Cắt điện gây tổn thương mô phúc mạc do thiếu máu nhiều hơn so với phẫu thuật siêu âm Dịch bởi AI Surgical Endoscopy And Other Interventional Techniques - Tập 25 - Trang 1827-1834 - 2010
Giảm thiểu tổn thương mô phúc mạc trong quá trình phẫu thuật ổ bụng có lợi cho việc giảm phản ứng viêm sau phẫu thuật, giảm đau và hình thành dính. Phẫu thuật siêu âm dường như giảm thiểu tổn thương mô. Nghiên cứu này nhằm so sánh cắt điện và phẫu thuật siêu âm về thiếu máu mô phúc mạc được đo lường bằng vi thẩm phân. Trong nghiên cứu này, 18 con chuột Wistar đã trải qua phẫu thuật laparotomy trung gian và được cấy một catheter vi thẩm phân phúc mạc ở bờ bên trái. Các động vật được phân ngẫu nhiên để nhận hai đường mổ phúc mạc tiêu chuẩn song song với catheter bằng cách sử dụng cắt điện hoặc phẫu thuật siêu âm. Sau phẫu thuật, các mẫu dịch vi thẩm phân được lấy mỗi 2 giờ cho đến 72 giờ sau phẫu thuật để đo lường pyruvate, lactate, glucose và glycerol, và các tỷ lệ được tính toán. Tỷ lệ lactate-pyruvate trung bình (LPR), tỷ lệ lactate-glucose (LGR), và nồng độ glycerol cao hơn đáng kể trong nhóm cắt điện so với nhóm phẫu thuật siêu âm lần lượt cho đến 34, 48, và 48 giờ sau phẫu thuật. Các diện tích dưới đường cong (AUC) trung bình của LPR, LGR, và nồng độ glycerol cũng cao hơn trong nhóm cắt điện so với nhóm phẫu thuật siêu âm (4.387 vs. 1.639, P = 0.011; 59 vs. 21, P = 0.008; 7.438 vs. 4.169, P = 0.008, tương ứng). Phẫu thuật điện gây tổn thương mô phúc mạc do thiếu máu nhiều hơn so với phẫu thuật siêu âm.
#cắt điện #phẫu thuật siêu âm #tổn thương mô phúc mạc #thiếu máu #vi thẩm phân
Nghiên cứu tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến phì đại thất trái ở bệnh nhân thẩm phân phúc mạcĐặt vấn đề: Biến chứng tim mạch là nguyên nhân chính dẫn đến tử vong trên bệnh nhân thẩm phân phúc mạc (TPPM) [5]. Phì đại thất trái (PĐTT) thường gặp ở bệnh nhân lọc máu định kỳ và là yếu tố nguy cơ độc lập tiên lượng tỉ lệ tử vong. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả và so sánh tỷ lệ, một số yếu tố liên quan đến phì đại thất trái ở bệnh nhân thẩm phân phúc mạc và thận nhân tạo (TNT). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có so sánh với nhóm chứng trên 148 bệnh nhân ≥ 18 tuổi, thời gian lọc máu định kỳ ≥ 3 tháng tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ, trong đó có 74 bệnh nhân TPPM và 74 bệnh nhân TNT (nhóm chứng). Kết quả: Tỷ lệ PĐTT ở bệnh nhân TPPM là 86,5% (90,6% là PĐTT đồng tâm, 9,4% là PĐTT lệch tâm) tương đương với nhóm chứng (TNT) là 90,5% (86,6% là PĐTT đồng tâm, 13,4% là PĐTT lệch tâm). Chỉ số khối cơ thất trái (LVMI) ở bệnh nhân TPPM có mối tương quan thuận với thời gian lọc máu (r=0,2), huyết áp tâm thu (r=0,54), huyết áp tâm trương (r=0,419) và tương quan nghịch với Hb (r=-0,363), thể tích nước tiểu 24 giờ (r=-0,448) trong phân tích đơn biến. Trên mô hình hồi quy logistic đa biến, mất chức năng thận tồn dư (CNTTD) là yếu tố nguy cơ độc lập của PĐTT ở bệnh nhân TPPM. Không có sự khác biệt về các yếu tố liên quan đến PĐTT giữa nhóm bệnh nhân TPPM và nhóm chứng (TNT) (p<0,05). Kết luận: PĐTT ở bệnh nhân TPPM và TNT chiếm tỷ lệ cao, tương đương nhau; không có sự khác biệt về một số yếu tố liên quan đến PĐTT ở hai nhóm. Mất CNTTD là yếu tố nguy cơ độc lập của PĐTT ở bệnh nhân TPPM.
#Phì đại thất trái #thẩm phân phúc mạc
LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐẶT THÔNG TENCKHOFF TRONG THẨM PHÂN PHÚC MẠC Đặt vấn đề: Suy thận mạn là bệnh lý nghiêm trọng, nguyên nhân gây tử vong không lây nhiễm trên toàn thế giới cũng như tại Việt Nam. Lọc màng bụng là giải pháp hữu hiệu có thể khắc phục được những hạn chế của các phương pháp khác để điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối trong giai đoạn hiện nay. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả phẫu thuật đặt thông Tenckhoff trong thẩm phân phúc mạc ở bệnh nhân suy thận mạn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả đoàn hệ, tiến cứu trên 38 bệnh nhân được chẩn đoán suy thận mạn giai đoạn cuối có chỉ định đặt thông Tenckhoff tại Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Cần Thơ. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân mổ bên trái là 100%. Tỷ lệ bệnh nhân mổ có cắt mạc nối là 2,6%. Thời gian mổ trung bình là 61,5 phút, số ngày nằm viện sau mổ trung bình là 7 ngày, số ngày bắt đầu lọc sau mổ trung bình là 13,9 ngày. Sau lọc, sự thay đổi chỉ số huyết học cao hơn trước lọc, chỉ số sinh hóa thấp hơn trước mổ có tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê. Biến chứng sớm lần lượt là chảy máu trong ổ bụng (2,6%), tụt catheter (2,6%), dò dịch catheter (2,6%). Biến chứng muộn nhiều nhất là thông kém chức năng (10,4%) kế đến là tắc thông do vòi trứng (5,2%). Kết luận: Phẫu thuật đặt catheter để lọc màng bụng là phương pháp an toàn, thích hợp với các bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối. Chú ý các biến chứng cơ học sau phẫu thuật. Ở nữ giới, cân nhắc nguyên nhân tắc do vòi trứng chui vào catheter khi nghi ngờ tình trạng tắc catheter.
#Catheter Tenckhoff #Suy thận giai đoạn cuối #Lọc màng bụng
Sự khác biệt trong phản ứng màng phúc mạc sau khi tiếp xúc với dung dịch thẩm tách bicarbonate/lactate đệm có GDP thấp so với dung dịch thẩm tách thông thường trong mô hình chuột uremic Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 50 - Trang 1151-1161 - 2018
Sự tiếp xúc lâu dài với dung dịch thẩm tách phúc mạc (PD) thông thường liên quan đến những thay đổi cấu trúc màng và thất bại kỹ thuật. Trước đây, đã có nghiên cứu chứng minh rằng các tế bào CD4+ T tiết IL-17 xâm lấn và các tế bào đại thực bào M2 gây xơ hóa đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh do PD gây ra. Dù các dung dịch PD có tính tương hợp sinh học tốt hơn được công nhận là bảo vệ tốt hơn tính toàn vẹn màng phúc mạc, tác động của các dung dịch này lên thành phần của tế bào thâm nhập vào phúc mạc vẫn chưa được biết đến. Trong một mô hình chuột PD uremic, chúng tôi đã so sánh ảnh hưởng của việc cấy dung dịch lactate chuẩn (LS) hoặc dung dịch đệm bicarbonate/lactate (BLS) và các nhóm đối chứng tương ứng đối với xơ hóa phúc mạc, sự tạo mạch và viêm. Việc tiếp xúc hàng ngày với dung dịch LS trong thời gian 8 tuần đã dẫn đến sự gia tăng αSMA và collagen trong phúc mạc, kèm theo sự hình thành mạch mới so với nhóm BLS. Dịch từ chuột được điều trị bằng LS cho thấy phần trăm quần thể tế bào CD4+ IL-17+ cao hơn trong khi tiếp xúc với BLS làm gia tăng quần thể đại thực bào. Các cytokine viêm mạnh mẽ như TGFβ1, TNFα, INFγ, và MIP-1β đã được phát hiện trong dịch từ những con chuột tiếp xúc BLS khi so sánh với các nhóm khác. Thêm vào đó, hóa mô miễn dịch của các nhóm đại thực bào thâm nhập trong nhóm BLS xác nhận tỷ lệ đại thực bào M1 gây viêm cao hơn so với nhóm M2 gây xơ hóa so với LS. Sự phát triển của xơ hóa phúc mạc và sự tạo mạch đã được ngăn chặn trong những con chuột tiếp xúc BLS, điều này có thể là nguyên nhân dẫn đến tính tương hợp sinh học được cải thiện của nó. Việc tuyển mộ đại thực bào M1 vào phúc mạc và số lượng tế bào CD4+ IL-17+ thấp hơn có thể giải thích cho sự bảo tồn tính toàn vẹn phúc mạc được quan sát trong những con chuột tiếp xúc BLS.
#thẩm tách phúc mạc #dung dịch thẩm tách #đại thực bào M1 #đại thực bào M2 #viêm #xơ hóa phúc mạc #mô hình chuột uremic